Phụng Vụ

 Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp  –   http://dmhcg.org

DMHCG - 1

Nha Tho DMHCG - 1

1098013_423496894429513_755047406_n

Thánh Nhạc Trong Phụng Vụ, Lm.Đỗ Xuân Quế

Phần I: Phụng Vụ Ca Hát Trong Thánh Lễ

Ca hát là một nhu cầu cần thiết và chính đáng trong thánh lễ. Thường có lễ là hát. Hát nhiều hay ít là tùy cấp bậc của lễ. Huấn thị De musica in sacra liturgia (Về âm nhạc trong phụng vụ ngày 5.3.1967) từ số 27-31 viết: “Khi cử hành thánh lễ có giáo dân tham dự, nhất là những ngày Chúa nhật và ngày lễ, nên hết sức coi trọng hình thức lễ hát hơn, dù cử hành nhiều lần trong cùng một ngày. Phải phân biệt lễ trọng, lễ hát và lễ đọc như đã ấn định trong huấn thị năm 1958 số 3, chiếu theo các luật phụng vụ hiện hành. Tuy nhiên, vì lý do lợi ích mục vụ, có thể đề ra những cấp bậc tham gia lễ hát, ngõ hầu từ nay về sau, mỗi cộng đoàn, tùy phương tiện sẵn có, dễ dàng cử hành thánh lễ trọng thể hơn nhờ ca hát.

Cách sử dụng các cấp bậc tham gia được qui định như sau. Bậc nhất có thể dùng riêng một mình, bậc hai và bậc ba chỉ được dùng tất cả hay một phần chung với bậc nhất. Như vậy, các tín hữu sẽ luôn luôn được khuyến khích dự phần ca hát một cách đầy đủ.      Ca doan Augustine

a. Bậc nhất gồm có :

Trong nghi thức nhập lễ :

– Lời chào của linh mục và lời đáp của giáo dân

– Lời nguyện

* Trong phần phụng vụ Lời Chúa

– Các câu tung hô Tin Mừng

* Trong phần phụng vụ Thánh Thể

– Lời nguyện tiến lễ

– Kinh Tiền tụng với những câu đối đáp và Kinh Thánh Thánh Thánh

– Lời ca tụng kết Kinh Tạ ơn

– Kinh Lạy Cha với lời nhắn nhủ và lời cầu nguyện tiếp

– Lời chúc bình an

– Lời nguyện hiệp lễ

– Những công thức kết lễ    DSC00608

b. Bậc hai gồm :

Kinh Xin Chúa thương xót, Kinh Vinh danh và Lạy Chiên Thiên Chúa

Kinh Tin kính

Lời nguyện giáo dân

IMG_1333

c. Bậc ba gồm :

Những bài hát lúc nhập lễ và rước lễ

Bài hát sau bài Cựu Ước hoặc Thánh thư Ha-lê-lui-a trước khi đọc TinMừng

Bài hát tiến lễ-

Các bài đọc sách thánh, trừ khi thấy nên đọc hơn là hát.

1459857_10201904056315803_260600306_n

Tại một vài nơi được đặc quyền, người ta thường dùng những bài hát khác thay thế các bài ca nhập lễ, tiến lễ và hiệp lễ trong sách Graduale. Có thể giữ như thế tùy phán quyết của Đấng Bản quyền địa phương, miễn là những bài hát đó hợp với các phần trong thánh lễ và ngày lễ cũng như mùa phụng vụ. Thẩm quyền địa phương phải phê chuẩn lời ca trong những bài hát đó.

Cộng đoàn tín hữu nên hết sức tham gia phần riêng lễ. Điều ấy có thể thực hiện được, nhất là khi có những điệp khúc dễ hát và những hình thức âm nhạc thích hợp.Bon Mang 2010 -

Như vậy, qua mấy số vừa trích dẫn trong Huấn thị Âm nhạc trong phụng vụ, đã rõ là Hội thánh khuyến khích việc ca hát trong thánh lễ và đặt ra những cấp bậc và luật lệ trong vấn đề này. Sở dĩ như thế vì ca hát trong thánh lễ là một vấn đề thuộc phụng vụ. Mà phụng vụ là việc thờ phượng có những luật riêng được qui định cho những người có bổn phận phải thi hành. Bởi vậy không lạ gì khi có nhiều người, và ngay cả linh mục nữa, cho rằng hát xướng trong nhà thờ theo luật của Hội thánh ngặt nghèo và chặt chẽ quá. Cũng đúng thôi ! Nhưng nếu suy nghĩ thêm và hiểu cho kỹ thì không phải như vậy, vì phụng vụ ca hát có một chức năng rất cao quý là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa tâm hồn các tín hữu. Chức năng này lại rất đòi hỏi, đòi hỏi dòng nhạc phải có nghệ thuật, lời ca và phong cách diễn đạt phải thánh thiện, bài ca phải được công nhận là hay ở mọi thời và khắp nơi. Những ai nghiên cứu hay theo dõi phụng vụ ca hát một chút, thì không còn xa lạ gì với những đòi hỏi này được cô đọng trong tiếng la-tinh qua những chữ bonitas formae, sanctitas và universalitas.

Bon mang ca doan 2012 -3

Người ta lại còn nói rằng Công đồng Va-ti-ca-nô II rất cởi mở phóng khoáng về nhiều mặt. Thế mà mấy ông trong Ban Thánh nhạc giáo phận thành phố Hồ Chí Minh mà trưởng ban là một linh mục dòng sắp sửa đến tuổi “cổ lai hy”, các thành viên khác phần đông là những người đứng tuổi, bắt phải theo những luật cũ, cho ra đời những bài hát nghe buồn thiu trên báo Hát lên mừng Chúa, tổ chức những buổi hát thánh ca tuy có quy mô và vĩ đại vào những dịp lễ Giáng sinh hàng năm ở nhà thờ Đức Bà, nhưng đó là những buổi hát dành cho người già quá nghiêm túc… Thành ra, phần đông người ta vẫn còn xa Ban Thánh nhạc ; những chủ trương và hoạt động của Ban không được người ta biết đến hay muốn biết đến. Phải chi những người nghĩ và nói như thế đã có dịp dự một buổi hát kinh chiều hàng ngày ở nhà thờ Notre Dame de Paris giữa những người tới tham dự và ban hát riêng của nhà thờ này gọi là Maỵtrise de la Cathédrale ; phải chi những người đó cũng đã đọc các tạp chí về phụng vụ và thánh nhạc soạn sau Công đồng Va-ti-ca-nô II như Notitiae, Célébrer, Maison-Dieu, Eglise qui chante, Choristes, Ancoli, Signes d’aujourd’hui, Signes Musique v.v… Phải chi những người đó cũng dự lễ và nghe hát trong nhà thờ ở những nước ngoài bên Âu Mỹ, hay các buổi hát cầu nguyện của những người trẻ ở khắp nơi trên thế giới tụ họp trong nhà thờ hòa giải ở Taizé, một làng nhỏ gần tỉnh Mâcon bên Pháp, được thu lại trong ba cuốn cassette đề là Come worship the Lord, Jubilate Deo, Cantate Domino, thì họ sẽ thấy rằng phụng vụ ca hát của Hội thánh không thay đổi bao nhiêu so với trước kia, trừ khi được hát bằng tiếng bản quốc thay tiếng la-tinh, được dùng nhạc cụ rộng rãi hơn với những điều kiện rõ rệt. Ngay như trong một tài liệu thánh nhạc ngày 5.11.1987 về vấn đề hòa nhạc trong nhà thờ vẫn còn những điều như sau :

Christmas 2012 -1

*” Nhạc công và thính giả phải ăn mặc và đi đứng cho xứng hợp với nơi thiêng thánh.

* Các nhạc sĩ và ca sĩ phải tránh chiếm cung thánh. Phải hết sức tỏ lòng tôn kính bàn thờ, giảng đài và ghế của vị chủ tọa.

*Phải cất Mình Thánh Chúa đi nơi khác.

*Phải có lời giới thiệu trình bày nhạc phẩm sắp trình diễn không nguyên về phương diện lịch sử nghệ thuật mà thôi, nhưng còn về phương diện tâm linh nữa, để thính giả có thể hiểu kỹ hơn và tham dự thấm thía hơn.”

Xem đấy, xưa cũng như nay, Hội thánh luôn có những luật lệ về phụng vụ ca hát. Dù cởi mở hay thích nghi, Hội thánh vẫn đặt vấn đề đàn hát vào đúng vị trí và giá trị của nó, như thấy biểu lộ trong thông điệp gửi các nghệ sĩ ngày 8.12.1965 dưới đây :

“Nếu đặt thánh nhạc hay nhạc đạo vào đúng vị trí và giá trị của nó, các nhạc sĩ Ki-tô giáo và các thành viên trong các “Scholae cantorum” sẽ cảm thấy được an ủi khi theo đuổi truyền thống này và cố giữ cho nó được sống động để phục vụ đức tin, như lời Công đồng Va-ti-ca-nô II mời gọi : “Các bạn đừng từ chối đem tài năng của mình ra để phục vụ chân lý của Chúa. Thế giới chúng ta đang sống cần phải có cái đẹp để khỏi rơi vào thất vọng. Cái đẹp cũng như chân lý làm cho lòng người vui tươi phấn khởi. Và điều đó, sở dĩ có được cũng là nhờ ở bàn tay của các bạn.”Cadoan1

Khi nói đến phụng vụ ca hát là có ý nói riêng đến việc hát trong thánh lễ, trong các giờ kinh phụng vụ hay trong các bí tích, vì theo đúng nghĩa chỉ những bài hát dùng trong ba địa hạt này mới gọi là phụng vụ. Mà vì là phụng vụ nên phải giữ những qui tắc về phụng vụ, nghĩa là lời trong các bài hát đó thường phải là lời Kinh thánh hay phụng vụ, những bài hát phải đặt vào đúng vị trí và theo hình thể tương xứng như đối ca, đáp ca, thánh thi, ngâm vịnh, xướng đáp, tung hô v.v… Về các hình thể, ở Việt Nam hiện nay hơi khó vì phần đông mới chỉ sáng tác ca khúc thôi còn về các hình thể khác, hoặc chưa có hoặc quá ít. Về lời Kinh thánh và phụng vụ cũng vậy. Sách lễ mới cho giáo dân chưa có, trong khi sách lễ cũ không có đủ, bản văn Kinh thánh phần Tân ước cũng mới phát hành rộng rãi gần đây thôi. Đàng khác các nhạc sĩ quen sáng tác theo cảm hứng mà ít dựa vào lời Kinh thánh hay phụng vụ để viết nhạc, vì dựa vào bản văn, các vị ấy cho là gò bó và khó hay, đang khi một trong những đòi hỏi căn bản của nhạc phụng vụ là lời phải là lời Chúa và khi hát lên phải được nghe rõ, đồng thời phải được đặt ở bên trên nhạc. Có nhạc sĩ cho như thế là giết chết nhạc, nhưng thực ra nhạc phải phục vụ lời trong phụng vụ. Bài hát phụng vụ, lời mới là chính, chứ không phải nhạc, vì vậy người ta mới kêu nhạc phụng vụ buồn là thế. Nhưng cũng tùy, một nhạc sĩ tài ba vẫn có thể đặt nhạc vào một bài thánh vịnh, một thánh thi đã có lời sẵn tuy khó mà vẫn hay cũng như một nhà văn, nhà thơ có tài có thể đặt lời vào một bản nhạc viết sẵn mà vẫn hay được. Có điều muốn dệt nhạc vào lời Kinh thánh phụng vụ theo các nhịp điệu tân thời bây giờ thì thật là khó và không hợp. Đàng khác theo ĐHY Villot Cựu quốc vụ khanh trong thư gửi Đại hội Thánh nhạc Ý đăng trên Osservatore romano số 39 thì phải để các hình thức nhạc Jazz ra ngoài phụng vụ, như người viết : “Phải cố gắng tránh và cấm tất cả các loại âm thanh, nhạc khí có tính thế tục, đặc biệt những bài hát kích động, gay cấn, rùm beng, làm náo động khung cảnh thanh lịch của nghi thức phụng vụ. Những thứ nhạc đó không thể nào xứng hợp với mục đích cao cả của phụng vụ là thánh hóa con người.”LCD - DFW 2009 -2

Thường người ta chưa phân biệt rõ thánh ca phụng vụ với thánh ca đại loại, đành rằng thánh ca hiện nay bao gồm nhiều thứ như ca khúc bình dân tôn giáo, nhạc có khởi hứng và tâm tình đạo, nhạc đa âm hợp xướng, nhạc phụng vụ. Các loại nhạc thánh ca khác có thể được hát trong nhà thờ ngoài khung cảnh phụng vụ mà chưa chắc đã được hát trong thánh lễ, vì muốn được hát trong thánh lễ thì những bài đó phải hợp với phụng vụ, nghĩa là lời rút ra từ các bản văn Kinh thánh và phụng vụ, đã được Hội thánh chọn lọc, lại phải hợp với phần đoạn của thánh lễ, ví dụ đem bài hát về Đức Mẹ hay kính các thánh mà hát vào lúc rước lễ hay sau khi rước lễ là không hợp rồi.

1426161_10201904496926818_1206472957_n

Ngoài ra đưa những bài đời đặt lời đạo vào để hát trong nhà thờ cũng không được, vì những bài đó không được viết ra để dùng trong nhà thờ, do đó hoàn toàn xa lạ với mục đích thờ phượng. Nhiều nơi đã đưa vào hát trong nhà thờ các bài Wedding, One day, Hymne à la joie, Uống nước nhớ nguồn, Ơn nghĩa sinh thành, v.v … Hát trong nhà thờ thì chắc chắn là không được rồi, có chăng là hát tại lễ gia tiên ở nhà hay ở các phòng lễ hội cho vui chứ không phải ở nhà thờ.DSC00612

Phần II: Các Bản Văn Và Các Bài Hát Dùng Trong Thánh Lễ

A. Các bản văn

1. Cố định

Có hai loại bản văn dùng trong thánh lễ, một loại cố định còn một loại có thể thích nghi, uyển chuyển. Loại cố định là lời văn trong Kinh Thương xót, Vinh danh, Tin kính, Thánh Thánh Thánh, Lạy Chiên Thiên Chúa, Lời tiền tụng, Kinh Lạy Cha, Kinh nguyện Thánh Thể, các câu tung hô xướng đáp. Lời văn của những kinh này không được thay đổi mà phải theo bản dịch chính thức đã được Hội Đồng Giám mục một nước hay một miền chuẩn nhận và Tòa thánh châu phê. Huấn thị thứ ba số 3 viết : “Riêng đối với nghi thức thánh lễ, phải đặc biệt tôn trọng. Trong các bản dịch chính thức, tuyệt đối cấm thay đổi các công thức trong nghi thức dù với lý do phải thay đổi cho dễ dệt nhạc.”Christmas 2012 -3

2. Uyển chuyển

Những bản văn này không buộc phải theo sát hoàn toàn. Đó là các bài ca nhập lễ và hiệp lễ. Vì những bản văn này không nhằm để hát, nên đôi khi không tiện dệt nhạc. Vì thế các nhạc sĩ có thể thay đổi năm ba chữ hay thay đổi thứ tự, miễn là không sai ý nghĩa, hoặc cũng có thể lấy ý đặt ra một bản văn khác hay dùng một bài tương đương để thay thế. Huấn thị thứ ba số 3 nói thêm : “Có thể dùng các đối ca nhập lễ, hiệp lễ lấy trong sách Graduale Romanum hay sách Graduale simplex, sách lễ Rô-ma hay trong các ca mục đã được Hội Đồng Giám mục chấp nhận. Khi chọn các bài để hát trong thánh lễ, Hội Đồng Giám mục không những phải lưu ý xem những bài đó có hợp với mùa phụng vụ, với hoàn cảnh cử hành phụng vụ hay không mà còn phải lưu ý đến nhu cầu của giáo dân sử dụng các bài hát đó nữa.Noel 2009 1

Phải hết sức cổ võ cho dân chúng hát, dù dưới những hình thức mới thích hợp với hồn dân tộc và não trạng của người thời nay. Các Hội Đồng Giám mục sẽ cho làm một tuyển tập các bài hát để dùng cho các nhóm riêng như thanh niên hay nhi đồng, nhưng phải liệu sao cho lời ca, âm nhạc, nhịp điệu và nhạc khí phù hợp với vẻ trang trọng và thánh thiện của nơi thờ phượng và việc thờ phượng.

Mặc dù Hội thánh không gạt ra ngoài phụng vụ một loại thánh ca nào, nhưng phải nhận rằng mọi thứ âm nhạc, bài hát hay nhạc khí không phải thứ nào cũng thích hợp để nuôi dưỡng lời cầu nguyện và diễn tả mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Vì mục đích của những thứ đó là đưa người ta tới chỗ thờ phượng Chúa nên âm nhạc phải hay, lời ca phải thánh thiện, lại phù hợp với tinh thần phụng vụ và bản tính của mỗi phần trong phụng vụ. Nói tóm lại, tất cả những thứ đó không được gây cản trở cho cộng đoàn tích cực tham gia phụng vụ và phải hướng lòng trí người ta về các mầu nhiệm đang cử hành.”

DSC00606

B. Các bài hát

Các bài hát trong thánh lễ là ca nhập lễ, bộ lễ, dâng lễ, hiệp lễ và kết lễ. Thường trong các nhà thờ của chúng ta vẫn thấy làm như thế. Có điều phải nói là quá ồn ào, bài hát chọn lựa không được kỹ cho đúng với tinh thần của mùa phụng vụ và các phần đoạn của thánh lễ. Sở dĩ như vậy vì những người lo việc ca hát chưa được nghe nói về thánh lễ và nhạc phụng vụ cho đủ, lại thiếu các bài hát được soạn để hát trong nhà thờ cho đúng với phụng vụ, hay có mà vì người có trách nhiệm chiều theo thị hiếu dễ dãi, không đòi hỏi, thích vui nhộn của ca viên, của giới trẻ nên đành bỏ qua.Nhac cong 1

Rồi còn đàn nữa ! Những người chơi đàn trong các nhà thờ hiện nay hầu hết dùng đàn điện tử, thường mở âm lượng cực lớn và chơi những điệu nhạc đời đã làm sẵn. Đến nhà thờ trong một khung cảnh như vậy thật là khó cầu nguyện. Điều đáng ngại là phần đông tới nhà thờ trong một quang cảnh như thế : bài hát thì tùy tiện, đàn trống thì inh ỏi mà không thấy vấn đề hay không đặt vấn đề gì cả ! Chúng ta có nhiệm vụ giáo dục đức tin chứ không phải chiều theo thị hiếu. Về điểm này, chương II trong Quy chế tổng quát sách lễ Rô-ma về Cơ cấu thánh lễ, các yếu tố và thành phần của thánh lễ từ trang 21-34, nhất là mục III về Từng phần của thánh lễ trang 25 có thể soi sáng cho chúng ta rất nhiều.Bon mang ca doan 2012 -14

1. Ca nhập lễ

Mục đích của bài ca này là mở đầu thánh lễ, tạo bầu khí phấn khởi, cho thấy ý nghĩa của mùa phụng vụ hay ngày lễ. Lý tưởng là cả nhà thờ cùng hát, nhất là khi có rước chủ tế ra hành lễ. Nên chọn bài hát phổ thông để mọi người có thể cùng hát. Về cách hát thì có thể hát theo ba cách. Cách thứ nhất là ca đoàn và cộng đoàn ; cách thứ hai là một xướng ca viên và cộng đoàn ; cách thứ ba là toàn thể cộng đoàn. Nhưng thực tế thì xem ra người ta hay có thói quen để cho một mình ca đoàn hát.

2. Kinh Thương xót

Đây là một bài hát xưng tụng và kêu cầu lòng thương xót của Chúa. Hình thức xứng hợp nhất để hát kinh này là xướng đáp. Một người hay ca đoàn xướng rồi mọi người trong cộng đoàn đáp lại. Lối xướng đáp ở đây có tính tung hô, nên phải đơn sơ dễ hát.

3. Kinh Vinh danh

Bản chất của bài này là ca tụng vinh quang Chúa Ba Ngôi. Đây là một bài thánh thi bằng văn xuôi có nhịp điệu, nên phải hát thế nào để biểu lộ được niềm hân hoan và mối đồng tâm của những người tham dự. Vì thế có thể hát chung với nhau hay chia làm hai bên luân phiên nhau, giữa ca đoàn với cộng đoàn hay giữa hai bên cộng đoàn với nhau.0045

4. Thánh vịnh đáp ca

Đây là phần hát cần phải điều chỉnh hơn cả, vì thường ca trưởng cũng như ca viên hay lấy bất cứ bài nào họ thích để điền vào chỗ này, hay chọn một bài hát về vị thánh kính ngày hôm đó để hát ở đây. Làm như thế chẳng khác gì như “ông nói gà, bà nói vịt” vậy, vì Chúa nói một đường, mình đáp lại một nẻo. Chúa nói trong bài đọc 1. Hội thánh đã xem những bài đó và tìm ra những đoạn thánh vịnh tương ứng đặt trong bài đáp ca. Có lẽ khi chọn bài hát, người chọn không để ý đến điểm này. Hiện nay đã có một số thánh vịnh đáp ca như của cha Kim Long, cha Nguyễn Hữu Phú và chị Hải Triều trong thành phố Hồ Chí Minh. Mới có mình cha Kim Long là xuất bản thành tập, còn hai tác giả kia vẫn chưa xuất bản ; ai biết thì mượn dùng thôi. Hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều thánh vịnh đáp ca được viết đúng theo quy cách để dùng trong phụng vụ.Bon mang ca doan 2012 -4

Người hát thánh vịnh đáp ca nên đứng ở giảng đài quay xuống cộng đoàn hát các câu riêng, còn câu đáp để cho cả nhà thờ hát. Vì muốn cho cả nhà thờ hát nên các câu đáp phải làm thật vắn gọn và dễ hát, chỉ cần tập vài phút trước lễ là mọi người có thể hát được. Câu này đã có sẵn trong bài đáp ca ; các nhạc sĩ chỉ cần dệt nhạc vào thôi. Nên làm thế nào cho cả nhà thờ hát được câu đáp, thì bầu khí tham dự sẽ khác hẳn lên. Trong tạp chí Maison – Dieu số 80 trang 71, cha Jounel viết : “Khúc ca này không cần giáo dân hát ; họ chỉ cần hát câu đáp thôi. Một người hay một ca viên sẽ đứng ở giảng đài đọc hay hát những câu xướng, rồi mọi người cứ chăm chú ngồi nghe. Đừng làm gì để họ có thể phân tán. Tốt nhất cứ để họ nghe, một người đọc hay hát thôi.”IMG_1115

5. Dâng lễ

Có thể nói ngoài các bài hát đã có về Đức Mẹ ra, các bài ca dâng lễ chiếm đa số. Điều này cũng dễ hiểu vì trước Công đồng Va-ti-ca-nô II chỉ có phần này là được hát nhiều bằng tiếng bản quốc thôi, thành ra các nhạc sĩ tập trung sáng tác vào đây khá nhiều. Bây giờ không còn buộc phải hát ca dâng lễ nữa, Nhưng nhiều nơi lại làm long trọng phần này quá đáng, nào là rước lễ vật, múa hát, làm văn nghệ. Thật là vui tai vui mắt, nhưng không hợp phụng vụ, bởi lẽ làm cho người tham dự bị phân tán, chú ý quá nhiều vào phần phụ thuộc không cần thiết, lại làm cho thánh lễ mất quân bình. Mục đích chính của việc dâng lễ vật là làm cho giáo dân ý thức vai trò tế lễ của họ trước chức linh mục của giáo dân mà thôi.Bon mang ca doan 2012 -5

6. Bài Thánh Thánh Thánh

Bài này là một bài tung hô mạnh mẽ phấn khởi, được thể hiện trong tư thế thờ lạy kính cẩn, nhấn mạnh đặc biệt khi hát câu “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”LCD - DFW 2009 -3

7. Lạy Chiên Thiên Chúa

Đây là bài hát của cộng đoàn dưới hình thức kinh cầu, diễn tả ý nghĩa của nghi thức bẻ bánh. Cử chỉ bẻ bánh có liên hệ đến cuộc thọ hình của Chúa Giê-su. Người như tấm bánh được bẻ ra để phân chia cho mọi người. Sự hy sinh của Người là dành cho mọi người, và ai cũng được thừa hưởng công ơn của việc hy sinh này.

8. Ca hiệp lễ

Bài ca hiệp lễ có thể đi kèm với việc tiến lên rước lễ, bày tỏ mối dây hiệp nhất giữa những người rước lễ và niềm vui trong tâm hồn. Có thể hát đối đáp giữa ca đoàn và cộng đoàn, giữa một xướng ca viên và cộng đoàn hoặc dạo một bài đàn. Cũng không cần phải hát cho đầy trong suốt khoảng thời gian rước lễ. Có thể có những lúc yên lặng, rồi một người nói lên một vài câu lấy từ trong bài Tin Mừng hay các bài sách thánh ngày hôm đó. Lúc này chỉ hát những bài tạ ơn, ca tụng thờ lạy Chúa chứ không hát về Đức Mẹ hay các thánh.New Year - 2013Bon mang ca doan 2012 -13

9. Kết lễ

Trong các nhà thờ ở Việt Nam, thường sau lời chúc bình an kết lễ, vẫn có thói quen hát một bài. Bài này có thể bỏ, nếu muốn, và thay vào đó bằng một bản đàn. Có thể hát về Chúa, Đức Mẹ hay các thánh tùy ý. Huấn thị Âm nhạc trong phụng vụ số 35 cũng nói đến bài hát này khi viết : “Trong thánh lễ đọc, có thể hát một vài phần thường lễ hay lễ riêng. Hơn nữa, đôi khi có thể hát một bài khác lúc nhập lễ, tiến lễ và hiệp lễ cũng như kết lễ ; tuy nhiên, nếu chỉ có tính cách hợp thánh lễ thì chưa đủ, mà còn phải hợp với các phần lễ, ngày lễ hay mùa phụng vụ.”cadoan2

Nhưng vì câu “lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an” là một câu kết thúc và giải tán, nên phải làm cho người ta thấy tới đây là hết rồi. Vì vậy, nếu có hát thì không nên hát dài và lâu. Tuy là hết nhưng mới hết ở giai đoạn cử hành thôi, còn sau đó là kéo dài trong tinh thần và trong giai đoạn áp dụng. Lễ đã xong, tín hữu ra về bình an với những công việc đời thường của mình, nhưng lại đem vào đó tinh thần và sức mạnh của Lời Chúa và Thánh Thể mình đã lãnh nhận được trong thánh lễ, để giúp mình sống vui tươi phấn khởi và như kéo dài thánh lễ ra trên trần gian vậy.Bon mang ca doan 2012 -1

Trên đây là một vài nét về Phụng vụ ca hát trong thánh lễ, dựa vào các bản văn qui định và những bản văn được phép thích nghi cùng những nhận xét và kinh nghiệm cá nhân của người viết. Các nhà thờ của chúng ta có vui vẻ, sôi nổi, sầm uất ởà bên ngoài thật, nhưng về thực chất bên trong, có những điều cần phải suy nghĩ lại. Mà một trong những điều đó là công việc hát xướng. Ca trưởng, ca đoàn không thể làm đúng, làm tốt việc này, nếu không được các cha sở hướng dẫn. Thiết tưởng đó phải là mối bận tâm của những vị có trách nhiệm trong vấn đề này.

Lm. Đỗ Xuân Quế

(Trích từ catruong.com)  CDAU_bonmang2010-03

       

 

                            Sinh Hoạt Cađoàn – Hình ảnh

 

 

                         Lễ Kình Bổn Mạng – Ca đoàn 2014

 

——————————————————————————

 

                    Hình ảnh mừng lễ bổn mạng của Các Bà Mẹ Công Giáo và Ca đoàn Augustine

 

 3445

 

This slideshow requires JavaScript.

Từ thánh nhạc đến nhạc phụng vụ

Lm. Phêrô Kiều Công Tùng

Trong Kinh Thánh, tên gọi của một người thường gắn liền với sứ mạng của người đó. Có những người đã phải đổi tên khi được trao cho một sứ vụ mới, như trường hợp Abraham trong Cựu Ước (St 17,5) hay Phêrô trong Tân Ước (Mt 16,18). Người Việt Nam có câu “nhìn mặt đặt tên” cũng cho thấy phần nào mối liên hệ giữa người với việc.

youtube=https://www.youtube.com/watch?v=RmuaOjToraw

Câu chuyện buổi chiều ngày Chúa Nhật Phục Sinh là một minh họa khác về tầm quan trọng của tên gọi đối với sứ vụ. Maria Mađalena đã trực tiếp gặp Chúa Phục Sinh, nhưng bà vẫn không nhận ra Người cho đến khi Chúa gọi đích danh bà: “Maria!” Ngay sau đó bà lãnh nhận và ra sức chu toàn sứ vụ của Đấng Phục Sinh trao phó.

Gọi tên chính xác một chủ thể sẽ đưa đến những đáp ứng tích cực trong các hoạt động liên quan đến chủ thể đó. Mục đích của bài viết này không đặt nặng về chuyên môn mà chỉ nhắm đến một chuyện rất nhỏ là gọi tên trong lãnh vực thánh nhạc.

 

1. Thay đổi trong cách gọi tên (thuật ngữ)

Tra cứu cuốn Từ Điển Tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Từ Điển Bách Khoa năm 2003, người ta chỉ thấy một mục từ duy nhất liên quan đến thánh nhạc là “thánh ca.” Dù không có điều kiện tiếp cận các nguồn tham khảo khác, nhưng người viết có thể hình dung ở đó một sự nghèo nàn về các mục từ liên quan đến tôn giáo. Vì thế, xin được khởi đầu đề tài “gọi tên” này bằng việc tra cứu các mục từ tương đương trong các từ điển chuyên môn bằng tiếng Anh.

https://www.youtube.com/watch?v=SK3CvWGtkMI

Các bộ từ điển chuyên môn như The New Grove Dictionary of Music and Musicians – Tân Từ Điển Grove về Âm Nhạc và Nhạc Sĩ (1980), và The New Harvard Dictionary of Music – Tân Từ Điển Harvard về Âm Nhạc (1986)­ đều không có các mục từ “sacred music” (thánh nhạc) hay “liturgical music” (nhạc phụng vụ) riêng rẽ. Trong khi đó, người ta có thể dễ dàng tìm thấy mục từ “liturgical music” trong cuốn The New Dictionary of Sacramental Worship – Tân Từ Điển Phụng Tự Bí Tích (1990). Điều này không có nghĩa là hai bộ từ điển đầu cùng các nguồn tham khảo khác không đả động gì đến bản chất của thánh nhạc hay nhạc phụng vụ, vì chưng nội dung này được bao gồm trong các mục từ khác, phổ biến nhất là mục từ “church music” (nhạc giáo đường). Hơn nữa, các từ điển này là những nguồn tham khảo về âm nhạc học thuần túy, trong khi cuốn tự điển sau The New Dictionary of Sacramental Worship là nguồn tham khảo về các vấn đề thần học liên quan đến đời sống phụng vụ của Giáo Hội. Một điểm cần lưu ý nữa là ở đây người ta đưa vào mục từ “liturgical music” chứ không phải là “sacred music.”

Những ghi nhận ở trên phản ánh một thực tế là sự thúc bách cần thay đổi về mặt thuật ngữ đã xuất hiện chủ yếu từ những ai có mối liên hệ trực tiếp với những cộng đoàn phụng vụ và quan tâm đặc biệt đến việc cử hành phụng tự, cả trong lịch sử lẫn hiện tại. Thuật ngữ phản ánh sự thay đổi biến hóa đã và đang diễn ra, mà trong đó những vấn nạn về chức năng, hình thể, và ý nghĩa phụng vụ được đề cập trước cả những câu hỏi liên quan đến hiện tượng học, triết học, lịch sử, và âm nhạc học.

https://www.youtube.com/watch?v=i2YpDWLeqRw

Theo dòng lịch sử, tên gọi lâu đời và phổ biến cho nhạc thờ phượng là “church music” (nhạc giáo đường), nhưng nó đang mất dần sự thịnh hành chung vì nhiều người cho rằng cách gọi này quá hạn chế và riêng biệt để có thể bao quát tất cả những cách biểu hiện khác nhau rất phong phú của âm nhạc dùng trong thờ phượng. Vì vậy, nhiều tên gọi thay thế khác đã được áp dụng như: “religious music” (nhạc tôn giáo), “sacred music” (thánh nhạc), và “liturgical music” (nhạc phụng vụ). Nhạc tôn giáo là tên gọi chung cho bất kỳ loại nhạc nào có chủ đề về tôn giáo. Thánh nhạc là thuật ngữ được dùng phổ biến nhất hiện nay, đặc biệt trong các văn kiện của Giáo Hội Công Giáo ở thế kỷ trước. Tên gọi này tránh được nghĩa rộng của “nhạc tôn giáo” và sự hạn chế của “nhạc giáo đường.” Tuy nhiên, “thánh nhạc” thường bị giới hạn để chỉ hoặc nhạc phụng vụ hoặc âm nhạc khai thác những chủ đề thánh trong truyền thống Kitô-Dothái giáo nói chung. Vì thế nhiều sáng tác của các tên tuổi lớn phải được xếp loại như thánh nhạc mặc dù chúng không hề được dự định để dùng trong phụng vụ. Một điều đáng chú ý là nhiều tác phẩm của thánh nhạc không dùng cho phụng vụ nhưng lại có nguồn gốc từ phụng vụ. Ví dụ, “Passion music” (bài thương khó) mà hiện nay thường được nghe trong các buổi hòa nhạc, có nguồn gốc từ các trình thuật phúc âm được hát trong suốt tuần thánh; “Oratorio” (giáo trường ca) phát triển từ những buổi diễn nguyện; và “Mass” (bộ lễ) tất nhiên xuất phát trực tiếp từ các bản văn phụng vụ.

“Liturgical music” (nhạc phụng vụ) là thuật ngữ thay thế đang ngày càng được sử dụng rộng rãi, nhằm bao trùm toàn bộ âm nhạc phụng tự theo truyền thống Kitô-Dothái giáo, âm nhạc có chức năng (functional music) của cộng đoàn được qui tụ (synagogue and ecclesia) trong các buổi thờ phượng. Một nhược điểm của tên gọi này là “phụng vụ” trong quá khứ được giải thích như các bản văn dùng trong phụng tự. Vì thế, nhạc phụng vụ có thể hiểu như là nhạc cho các bản văn phụng vụ, kể cả những bài thánh ca phụng vụ và các câu đối đáp. Tuy nhiên, cách dùng hiện thời của “phụng vụ” không giới hạn ở bản văn mà bao gồm tất cả những gì được chỉ định bởi nghi thức. Nếu được hiểu theo cách này thì “nhạc phụng vụ” là thuật ngữ thích hợp cho âm nhạc dùng trong phụng tự.  

Trở lại với ngôn ngữ Việt Nam, ta thấy một số từ liên quan thường được dùng như “nhạc đạo” và “thánh ca” hay “thánh nhạc.” Nhạc đạo là từ dùng để phân biệt với nhạc đời, nên có nghĩa khá rộng chứ không chỉ giới hạn trong Kitô giáo. Ví dụ, các ca khúc của Phật giáo cũng được gọi là nhạc đạo. Còn lại, thuật ngữ “thánh ca” hay “thánh nhạc” từ lâu đã được dùng rộng rãi trong giới Công Giáo. Theo cách sử dụng thông thường, khi nói đến thánh nhạc thì người ta nghĩ ngay đến âm nhạc dùng trong phụng vụ. Ba Thông Cáo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về Thánh Nhạc do Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa ký ngày 24/9/1994, và gần đây là bài Mấy Nhận Định và Đề Nghị về Thánh Nhạc do Đức cha Stêphanô Tri Bửu Thiên ký ngày 28/9/2004 đã cố gắng làm rõ vấn đề khi chọn cách gọi “thánh ca dùng trong phụng vụ.”  

Thực ra, thuật ngữ “thánh nhạc” đề cao bản chất của âm nhạc và mang nghĩa rộng. Tính từ “thánh” không nói lên được chức năng của âm nhạc dùng trong phụng vụ, nên cần có sự thay thế cho phù hợp. Cách gọi “thánh nhạc trong phụng vụ” cũng đưa đến một cách hiểu không trọn vẹn như cha Gelineau lưu ý “nhạc phụng vụ là âm nhạc của phụng vụ chứ không chỉ đơn giản là âm nhạc xuất hiện hay được đặt vào trong phụng vụ.” Hơn nữa, sự phát triển của âm nhạc dùng trong phụng vụ những thập niên vừa qua, đặc biệt từ sau công đồng Vaticanô II, cho thấy có một sự chuyển dịch căn bản trong ý nghĩa và mục đích của âm nhạc trong phụng tự. Sự thay đổi này được cụ thể hóa trong việc hình thành sở thích đối với thuật ngữ “nhạc phụng vụ” hơn là “thánh nhạc” trong thời gian gần đây. Ví dụ, hơn mười năm trước cha Tiến Lộc đã dùng thuật ngữ “nhạc phụng vụ” để phân biệt với “ca sinh hoạt tôn giáo.”1 Gần đây hơn, cha Xuân Thảo đã dùng cách gọi tên này trong đề tài “Hội Nhập Văn Hóa Nhạc Phụng Vụ.”2

 

Tính từ “phụng vụ” trong thuật ngữ “nhạc phụng vụ” xác định rõ ràng chức năng căn bản của nhạc dùng trong thờ phượng, vốn chi phối đặc tính và thành phần của nó. Theo cha Edward Foley, nhạc phụng vụ là “âm nhạc hòa hợp với hành động phụng vụ, dùng để biểu lộ ý nghĩa trọn vẹn của nghi lễ, đồng thời âm nhạc cũng tìm thấy nghĩa đầy đủ của nó từ phụng vụ.” Từ định nghĩa trên, ta thấy cách đặt vấn đề “nhạc phụng vụ là gì?” đến sau câu hỏi cơ bản “nhạc phụng vụ nhắm đến điều gì?” Chức năng và khung cảnh sẽ xác định hình thể và thành phần, vì thế bản chất và thể loại của nhạc phụng vụ không thể được hiểu cách đầy đủ cho đến khi mục đích và cách sử dụng của nó được xác lập. Cũng vậy, khi nghe và nghiên cứu nhạc phụng vụ bên ngoài việc thờ phượng mà nó nhắm tới, người ta sẽ làm mất đi tính toàn vẹn, ý nghĩa, và bản chất của nhạc phụng vụ.  

2. Thay đổi trong các văn kiện

Thuật ngữ chuyên dùng trong các văn kiện của Giáo Hội Công giáo Rôma liên quan đến thánh nhạc là “sacred music” (thánh nhạc). Tuy nhiên, người ta thấy có sự chuyển biến rõ ràng trong cách sử dụng thuật ngữ này. Vì giới hạn của bài viết, ở đây chỉ xin lược lại một vài điểm liên quan trong những văn kiện quan trọng từ đầu thế kỷ XX trở lại đây.

Tự sắc Tra le sollocitudini (TLS, 1903) của Đức Giáo Hoàng Piô X nhấn mạnh sự tham gia tích cực của cộng đoàn vào chính việc thờ phượng cũng như việc ca hát. TLS khẳng định rằng âm nhạc là “một phần thiết yếu và hoàn chỉnh của phụng vụ trọng thể” (số 1). Xác định rằng vai trò chủ yếu của âm nhạc là phục vụ cho bản văn phụng vụ, Đức Piô X đã phác họa ba tiêu chuẩn cho thánh nhạc: thánh thiện, nghệ thuật, và phổ quát (số 2). Văn kiện này chia âm nhạc dùng trong phụng vụ thành ba loại: bình ca Gregorian (Gregorian chant), nhạc đa âm cổ điển (classic polyphony), và thánh nhạc hiện đại (các số 3-5). Ở đây âm nhạc chủ yếu là đi kèm theo bản văn phụng vụ bằng tiếng Latinh. Theo thói quen, có thể được phép hát một bài motet suy tôn Thánh Thể sau Benedictus trong thánh lễ trọng thể. Cũng có thể hát một bài motet ngắn với lời đã được thẩm quyền phê duyệt sau khi hát Offertory (số 8).  

Thông điệp Musicae sacrae disciplina (MSD, 1955) của Đức Giáo Hoàng Piô XII lập lại những nguyên tắc của Đức Piô X. Văn kiện này bắt đầu phân biệt giữa thánh nhạc (sacred music) là một phần của phụng vụ và nhạc tôn giáo (religious music) không nhất thiết là thành phần của phụng vụ thánh, nhưng rất hữu ích trong việc giáo dục đức tin (số 36-37). Ở đây, ta thấy những bài thánh ca bình dân được xem như một thể loại của thánh nhạc. Với việc cho phép hát những bài thánh ca bình dân bằng tiếng bản xứ trong các thánh lễ đọc missa lecta, MSD mở đường cho kiểu mẫu thánh lễ với bốn bài thánh ca (nhập lễ, dâng lễ, hiệp lễ, và kết lễ) như phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, văn kiện này không xem việc hát như thế chính xác là hát phụng vụ, nhưng như việc ca hát cầu nguyện bình dân được phối hợp với hành động phụng vụ (số 62-65). Điều này đưa đến hệ quả là những yếu tố tương đối ít quan trọng về thần học nghi thức được gán cho một sự nổi bật thái quá trong những bài hát cộng đoàn, trong khi những thành phần quan trọng của phụng vụ lại chỉ được đọc. 

Sau đó Thánh bộ Lễ Nghi đã ấn hành một văn kiện bổ sung là huấn dụ De musica sacra (1958) làm rõ hơn bản chất của thánh nhạc bao gồm nhạc Gregorian, thánh ca đa âm, thánh ca hiện đại, thánh nhạc cho đại phong cầm, thánh ca bình dân, và nhạc tôn giáo (số 4). Trong số đó, có loại không được phép dùng trong cử hành phụng vụ, có loại chỉ được dùng một cách hạn chế (số 5-10).

Hiến Chế về Phụng Vụ Sacrosanctum concilium (SC, 1963) của Công Đồng Vaticanô II nhắc lại quan điểm của Đức Piô X rằng vai trò của âm nhạc là phục vụ cho việc thờ phượng và tạo nên “phần thiết yếu và hoàn chỉnh cho buổi cử hành phụng vụ trọng thể.” Lý do cơ bản cho vai trò thiết yếu của âm nhạc trong phụng vụ là âm nhạc có khả năng kết hợp và hỗ trợ cho bản văn phụng vụ. Hơn nữa, văn kiện này còn nhận ra thế mạnh của âm nhạc không chỉ hỗ trợ bản văn mà còn kết hợp với hành động phụng vụ (số 112). Khác với các văn kiện trước, thay vì phân biệt nhiều loại thánh nhạc, SC chỉ trình bày hai loại chính: bình ca và các thể loại khác bao gồm nhạc đa âm và thánh ca bình dân (số 116, 118).

Huấn Thị về Thánh Nhạc trong Phụng Vụ Thánh Musicam Sacram (1967) phân loại thánh nhạc gần như theo cách của huấn dụ 1958. Theo đó, thánh nhạc bao gồm nhạc Gregorian, thánh ca đa âm cổ điển, thánh nhạc hiện đại, nhạc cho đại phong cầm và các nhạc khí, thánh ca bình dân, ca khúc tôn giáo (số 4b). Ta thấy có một số thay đổi nhỏ là hệ quả của việc sử dụng ngôn ngữ bản xứ và các loại nhạc cụ khác trong cử hành phụng vụ được công đồng Vaticanô II cho phép.  

Gần đây, thủ bút của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (2003) nhân kỷ niệm 100 năm tự sắc Tra le sollecitudini nhiều lần dùng thuật ngữ “nhạc phụng vụ” trong các số 3, 5, 7, 9, 12, và 13.

Từ những ghi nhận trên, ta nhận thấy khái niệm “thánh nhạc” được mở rộng dần theo thời gian cùng với những phong cách sáng tác mới và việc cho phép sử dụng ngôn ngữ bản xứ trong phụng vụ. Với nghĩa rộng như thế, thánh nhạc không còn giới hạn trong khuôn khổ phụng tự nữa mà bao gồm cả những tác phẩm âm nhạc sử dụng ngoài phụng vụ. Hơn nữa, việc nhấn mạnh đến tính từ “thánh” (sacred) trong tên gọi âm nhạc dùng trong phụng vụ trước đây còn có một lý do khác. Quan niệm về âm nhạc của triết học Hy Lạp (Pythagoras, Plato) và triết gia La Mã Boethius, cho rằng âm nhạc là một thực tại khách quan có thể bao gồm trong chính nó nhân đức hay sự xấu xa, đã tồn tại lâu đời trong Giáo Hội. Thêm vào đó, trong thực tế âm nhạc cũng được dùng rất rộng rãi trong các nghi thức ngoại giáo. Vì thế, Đức Piô X đòi hỏi rằng âm nhạc phải thánh và “loại trừ tất cả sự trần tục không chỉ tự thân âm nhạc mà còn trong cách thức nó được trình bày” (TLS, số 2). Từ quan niệm đó, âm nhạc thích hợp nhất cho phụng vụ được xem xét phải là “thánh” nhạc. Một sự ra đi đầy ý nghĩa khỏi quan niệm đó được thấy rõ ràng trong Hiến Chế về Phụng Vụ vốn không đặt nặng trên những chuẩn mực triết học và thần học trừu tượng trong việc lượng giá âm nhạc cho việc thờ phượng, nhưng nhấn mạnh chức năng của âm nhạc ấy. Vì thế SC ghi nhận rằng chính nhờ sự kết hợp của nhạc với lời mà âm nhạc tạo nên một phần thiết yếu của phụng vụ (số 112). Thậm chí, ý nghĩa hơn nữa khi hiến chế tuyên bố rằng thánh nhạc sẽ càng thánh thiện khi nó càng kết hợp mật thiết với nghi thức phụng vụ. Dù vẫn giữ ngôn ngữ “thánh thiện” của Đức Piô X, Vaticanô II rõ ràng đã chuyển tới một định nghĩa chú trọng đến chức năng của thánh nhạc, nhấn mạnh rằng sự thánh thiện của nó không chỉ là vấn đề thuộc bản thể học hay đạo đức nhưng còn liên quan đến khả năng của âm nhạc kết hợp chính nó với bản văn và nghi thức phụng vụ. Điều này mở đường cho việc sử dụng thuật ngữ “nhạc phụng vụ” trong các tài liệu về sau này. 

3. Thay đổi trong thực hành mục vụ

Hoạt động thánh nhạc mở rộng ra ngoài lĩnh vực phụng vụ

Từ lâu, do hoàn cảnh khách quan chi phối, những hoạt động thánh nhạc thường phải giới hạn trong lĩnh vực cử hành phụng vụ. Lâu rồi thành nếp khiến người ta quên đi những hoạt động khác của thánh nhạc ngoài phụng vụ. Những cuộc hội thảo về thánh nhạc trước đây phần lớn đều xoay quanh các chủ đề liên quan đến nhạc phụng vụ như một bằng chứng cho nhận định này. Tuy nhiên, người ta cũng dễ dàng nhận thấy có một chuyển biến tích cực khi nhìn vào những nỗ lực cụ thể hướng đến Năm Thánh 2010 của ủy ban thánh nhạc.3

Ngoài ra, việc không xác định rõ tên gọi đưa đến sự đánh đồng thánh nhạc với nhạc phụng vụ cũng là một nguyên nhân dẫn đến nhiều vấn đề như: (a) Đưa tất cả những gì của thánh nhạc vào phụng vụ, thí dụ những bài thánh ca suy niệm hay có tâm tình cầu nguyện cá nhân, v.v. (b) Thiếu quan tâm phát triển những lãnh vực khác của thánh nhạc như thánh ca giáo lý, thánh ca vào đời, thánh ca hợp xướng cho các buổi hội diễn, v.v. 

Nhạc phụng vụ là lời cầu nguyện của cộng đoàn phụng vụ

Ngay từ buổi đầu ra đời, các bài thánh ca Việt Nam được hát để giúp người giáo dân “chầu lễ” trong các thánh lễ cử hành bằng tiếng Latinh. Tới những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, khi thánh ca bình dân chính thức được phép hát trong các thánh lễ đọc, thì những bài thánh ca tiếng Việt cũng chỉ xem như cách cầu nguyện bình dân được phối hợp với hành động phụng vụ cử hành bằng “ngôn ngữ lạ.” Như thế, yếu tố phụng vụ của các bài thánh ca này ít được coi trọng mà chỉ chú ý đến tâm tình đạo đức. Sau Công Đồng Vaticanô II, mặc dù vai trò thừa tác của nhạc phụng vụ đã được nhấn mạnh, nhiều sáng tác mới vẫn đi theo lối xưa mà không nêu bật được tính cộng đoàn của nhạc phụng vụ. Thực tế, nhiều bài thánh ca có tâm tình cầu nguyện rất sâu sắc, nhưng lại thích hợp cho việc cầu nguyện cá nhân hơn là lời cầu nguyện của cộng đoàn phụng vụ.

 

Ở đây phát sinh vấn đề liên quan đến việc chuẩn nhận thánh ca. Xét về chức năng và mục đích của âm nhạc trong phụng vụ, thì tiêu chuẩn “khơi động những tâm tình của tín hữu” chưa đủ để một bài thánh ca được đưa vào phụng vụ. Mặt khác, khi đã thống nhất cách gọi tên và phân loại thì không phải chỉ có nhạc phụng vụ mới cần được chuẩn nhận. Thánh ca giáo lý là mảng liên quan trực tiếp đến đức tin nên càng phải tuân thủ qui luật này. Khi đó, không phải tất cả các bài hát đã được imprimatur (cho phép in) là có thể hát trong phụng vụ. Vấn đề chính vẫn là ở phía người sử dụng phải được trang bị khả năng phán đoán và lựa chọn. Chọn lựa âm nhạc thích hợp cho phụng vụ không chỉ đòi hỏi một hiểu biết về sự chính xác của bản văn và giá trị của bài hát. Việc lựa chọn còn đòi hỏi một hiểu biết về cấu trúc vĩ mô và vi mô của cử hành phụng vụ để phân biệt đâu là trọng tâm của nghi thức, rồi khám phá ra làm thế nào để âm nhạc có thể đóng góp cho sự trọn vẹn của buổi cử hành. Trong hướng dẫn thực hành, các tài liệu về thánh nhạc của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã cụ thể hóa ba tiêu chuẩn do Đức Giáo Hoàng Piô X đưa ra bằng đề nghị lượng giá nhạc phụng vụ dựa trên sự suy xét ba mặt: phụng vụ, mục vụ, và âm nhạc.4 Thiết nghĩ Ủy Ban Thánh Nhạc cũng cần có một bản hướng dẫn cụ thể tham chiếu những tiêu chuẩn đó.

 

Đào tạo người làm thánh nhạc như một thừa tác viên

Việc đào tạo thánh nhạc là một yếu tố căn bản cho việc thực hiện thành công đường hướng canh tân phụng vụ của Công Đồng Vaticanô II. Nhạc phụng vụ có vai trò thừa tác, nên những người liên quan đến nhạc phụng vụ (ca trưởng, ca viên, người đệm đàn, v.v.) cũng phải ý thức thừa tác vụ của mình. Họ không chỉ là những người tự nguyện phục vụ, mà chính là các thừa tác viên chia sẻ niềm tin, phục vụ cộng đoàn, cùng diễn tả tình yêu Thiên Chúa và tha nhân qua âm nhạc. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II qua Tông huấn Christifideles Laici (Kitô hữu Giáo dân, 1988) đã lưu ý việc đào tạo mục vụ cho người giáo dân cần hội đủ bốn lãnh vực: nhân bản, thiêng liêng, tri thức, và mục vụ.5 Những yếu tố này được thể hiện cách khác nhau trong một chương trình huấn luyện. Tài liệu về Âm Nhạc trong Phụng Vụ Thánh của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ có hướng dẫn cụ thể: “Người nhạc sĩ làm mục vụ cần phải được đào tạo thích hợp đặt nền tảng trên ơn gọi của họ qua bí tích Rửa tội để trở thành người môn đệ Chúa. Chương trình huấn luyện sẽ truyền đạt cho họ những kiến thức vững vàng và tình yêu đối với Thánh Kinh, những giáo huấn của Giáo Hội, hiểu biết về phụng vụ và âm nhạc. Đồng thời, họ cũng được trang bị những kỹ năng chuyên môn về âm nhạc, phụng vụ, và mục vụ để tận tình phục vụ việc cầu nguyện của Giáo Hội.”6

Hướng đến một bản hướng dẫn về thánh nhạc

Kể từ khi Công Đồng Vaticanô II có những quyết định và chỉ thị về cải cách phụng vụ cho tới nay có thể nói Giáo Hội Việt Nam vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể nào về nhạc phụng vụ, ngoại trừ ba Thông Báo về Thánh Nhạc vào năm 1994. Thiết nghĩ một trong những việc cần làm ngay của Hội đồng Giám mục Việt Nam vào thời điểm này là soạn thảo và ban hành một tài liệu chính thức về mục vụ thánh nhạc. Đây sẽ là nguồn tham khảo cung cấp những hướng dẫn căn bản giúp người tín hữu hiểu biết về vai trò và tác vụ của âm nhạc trong phụng vụ. Tài liệu này sẽ được sử dụng trong các chương trình huấn luyện thánh nhạc.   http://www.youtube.com/watch?v=aVgBzeXlnJQ

Kinh nghiệm về mục vụ thánh nhạc từ Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ cho thấy những tài liệu liên quan luôn được ban hành và cập nhật kịp thời cho phù hợp với hoàn cảnh của từng giai đoạn. Năm 1972, Ủy ban Phụng tự của Hội đồng Giám mục đã ấn hành bản tuyên bố Music in Catholic Worship (Âm Nhạc trong Phụng Tự Công Giáo) gồm 84 số. Mười năm sau, năm 1982 một tài liệu mới của cùng Ủy ban trên được ban hành là Liturgical Music Today (Nhạc Phụng Vụ Ngày Nay) gồm 74 số. Tài liệu mới nhất Sing to the Lord: Music in Divine Worship (Hát Mừng Chúa: Âm Nhạc trong Phụng Vụ Thánh) gồm 259 số do ủy ban Phụng Vụ Thánh soạn thảo và được chuẩn y bởi Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ ngày 14/11/2007. Tất cả những tài liệu trên đều nhằm xác định bản chất của âm nhạc trong phụng tự Công giáo, chỉ rõ mục đích và tiêu chuẩn của âm nhạc ấy, đồng thời lập lại ý muốn của Công Đồng về sự tham dự đầy đủ, tích cực và ý thức của cộng đoàn vào buổi cử hành phụng vụ qua việc ca hát. Các tài liệu này cũng nêu rõ những quan tâm về mục vụ như hội nhập văn hóa, sử dụng nhạc cụ, việc huấn luyện, lựa chọn bài hát… và cả việc sử dụng âm nhạc trong giảng dạy giáo lý cho trẻ em nữa. Nhìn chung, đây là những tài liệu hữu ích không chỉ cho người sử dụng mà cả người sáng tác âm nhạc.  

Hình thức và nội dung cũng như cách thức thực hiện một bản hướng dẫn đầy đủ về thánh nhạc tại Việt Nam cần được chuẩn bị, bàn thảo kỹ lưỡng với sự cộng tác của nhiều thành phần liên quan. Một khi đã được hình thành, tài liệu này sẽ góp phần không nhỏ vào sự phát triển thánh nhạc của Giáo Hội Việt Nam trong tương lai.

Kết luận

Như được ngỏ ngay từ đầu, nguyện vọng khi đưa đề tài về tên gọi ra thảo luận qua bài viết này không chỉ là để gọi tên cho chính xác mà là xác định lại chức năng, phạm vi và mục đích của từng lãnh vực liên quan đến thánh nhạc. Đây cũng là bước khởi đầu cho một viễn tượng trong tương lai của những hoạt động thánh nhạc từ cấp độ toàn quốc cho đến các giáo phận. Tắt một lời, tất cả vì sự phát triển vững mạnh và đúng hướng của nền thánh nhạc Việt Nam.

Sàigòn, Mùa Phục Sinh 2010                        

–––––––––––––––––––––––

1 Tiến Lộc, “Ca Sinh Hoạt Tôn Giáo,” Hương Trầm 4 (1997): 40-55.

2 Xuân Thảo, “Một Số Gợi Ý về Hội Nhập Văn Hóa Nhạc Phụng Vụ tại Việt Nam,” Hương Trầm 9 (2008): 5-28.

3 Xem bản sơ thảo “Thánh Nhạc và Đời Sống Đức Tin của Dân Chúa tại Việt Nam 50 Năm Qua (1960-2010)” của Ủy Ban Thánh Nhạc, trang 43-44.

4 Xem Music in Catholic Worship, các số 25-41; và Sing to the Lord, các số 126-136.

5 John Paul II, Christifideles Laici – Ơn Gọi của Người Giáo Dân (1988), số 60-61.

6 Sing to the Lord, số 50.

Tài liệu tham khảo:

Foley, Edward. “Liturgical Music” [Nhạc Phụng Vụ]. Trong The New Dictionary of Sacramental Worship [Tân Từ Điển Phụng Tự Bí Tích], biên tập Peter Fink, 854-70. Collegeville: The Liturgical Press, 1990.

Leaver, Robin A. “What Is Liturgical Music?” [Nhạc Phụng Vụ Là Gì?]. Trong Liturgy and Music [Phụng Vụ và Âm Nhạc], biên tập Robin A. Leaver và Joyce Ann Zimmerman, 211-19. Collegeville: The Liturgical Press, 1998.

Lm. Phêrô Kiều Công Tùng

Space-Earth-Wallpaper-HD

https://cadoanaugustinecuuthanhvien.wordpress.com/

 

Home